AI ĐÚNG AI SAI? . . . ĐÂU LÀ SỰ THẬT
* đây là giải thích cho bút danh trúc phương từ một người bà con của nhạc sĩ Trúc Phương
Nhân đây, tôi muốn nhắn với Trúc Linh về tiểu sử và nguồn gốc về cái tên Trúc Phương, cũng như cái tên Trúc Linh ngày, từ đâu mà có.
Tôi tên là Trần Trúc Quang, gia đình tôi gồm 10 anh chị em, tất cả đều mang tên là Trần Trúc... Tôi là người con thứ 8 trong gia đình. Hiện tạị, tôi đã hơn 60 rồi. Tôi hiện đang hành nghề bác sĩ tại Falls Church, tiểu bang Vỉginia, Hoa Kỳ. Tôi là nhà văn Trần Long Hồ, cũng là nhà thơ Trần Thảo Lư. Tôi gọi nhạc sĩ Trúc Phương là chú. Bà nội của tôi là chị của bà nội Trúc Linh. Ba tôi lớn tuổi hơn chú Lộc (nhạc sĩ Trúc Phương) rất nhiều. Ba tôi sinh năm 1916, chú Lộc sinh năm 1933 (không phải 1939 như nhiều người đã ghi, và hình như trên bia mộ của chú Lộc cũng ghi sai là 1939). Ký ức của tôi còn giữ lại được tới khoảng năm 1958. Vào khoảng năm 1956, chú Lộc từ Trà Vinh lên thăm ba tôi. Lúc đó, theo tôi nhớ, chú Lộc có giữ trong tay 2 bài nhạc là Chiều Làng Em và Đò Chiều. Lúc đó, chú khoảng 23 tuổi. Chú có hỏi ba tôi để lấy cái tên của người chị thứ 5 của tôi là Trần Trúc Phương (đã chết lúc 1 tuổi). Ba tôi có giúp cho chú Lộc một ít tiền, để trước tiên là vá cái bánh xe đạp bị cán đinh, và sau đó để in ra 2 bản nhac Chiều Làng Em và Đò Chiều. Chú Lộc ham mê và có năng khiếu về âm nhạc từ thuở nhỏ, mặc dù chú hơi bị lãng tai (theo lời ba tôi thuật lại). Cha của chú Lộc (tức là ông nội của Trúc Linh, tôi gọi là ông dượng, không phải là một nhà giáo mô phạm và sống khép kín như tác giả Nguyễn Đình Toàn đã ghi), chính thật là một nghệ sĩ hát bội, sau chuyển qua cải lương, ông đã nổi tiếng ở vùng Trà Vinh thuở đó. Bà dì cũa tôi, tức là mẹ của chú Lộc hay bà nội của Trúc Linh, và chú Lộc, trong thuở ấu thơ đã có một thời gian sống chung với gia đình ba tôi. Bà nội tôi hay gọi "thằng Lộc đâu, ra đây hát cho "má Ba" nghe coi." Lúc đó, chú Lộc chừng khoảng 4 hay 5 tuổi, chú Lộc ca xong thì bà nội cho mấy xu ăn kẹo.
Khoảng một năm sau, có lẽ năm 1957, chú Lộc có quay trở lại nhà ba tôi. Chú có dẫn theo một cô gái rất đẹp và trẻ hơn chú rất nhiều. Chú Lộc nói "Tụi bây đâu, ra chào thím Lộc đi." Tôi đoán, cô gái trẻ đẹp của năm 1957 đó, chắc là thím Lộc, mẹ của Trúc Linh bây giờ.
Rôi từ năm 1959, gia đình tôi gặp đại nạn. Chúng tôi phải dọn nhà đi liên tục nhiều nơi. Có lẽ, chú Lộc có trở lại tìm ba tôi, nhưng không gặp.
Thời gian thấm thoát trôi qua, đứa bé 6 tuổi ngày xưa, bây giờ đã hơn 60 rồi. Tôi nghĩ là, cần nói những chuyện này ra, để Trúc Linh biết rõ hơn về nguồn gốc của mình. Những thế hệ sau, con cháu của chúng tôi đều giữ cái tên Trần Trúc. Ngay ở Califonia, Hoa Kỳ, có chi phái Trần Trúc cùa người anh thứ 6 của tôi là Trần Trúc Việt (em kế chị Trần Trúc Phương, thứ 5). Trúc Linh được e mail này, nếu muốn biết bà con, hãy liên lạc với anh, số fax (703) 538-6403. Anh sẽ cho em số e-mail sau.
*
.......Ấy vậy mà đã 16 năm trôi qua, kể từ ngày anh qua đời, 21-9-1996....... ( nguồn: báo tuổi trẻ)
Trả lời:Ông mất ngày 16/9/97 . Lúc ấy thì gia đình củng không tới nổi, khi làm đám tang, (nguồn : NS Trúc Linh)
Nhưng chắc chắn là ít có người đã biết tin ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995. ( Nguồn vietnamsky.vn)
**************************************
Trích dẫn từ: vietnamsky.vn trong 06 Tháng Mười Một, 2010, 09:44:58 PM
Cuộc đời Nhạc sĩ Trúc Phương
Đã có nhiều bài viết và nhận xét khác nhau của khán thính giả khắp nơi về chương trình Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2 – Hát Với Thần Tượng” được phát hành cách đây vài tuần. Theo ý kiến của đa số khán giả, DVD Asia 55 kỳ này đã đáp ứng được những đòi hỏi của mọi người như: mới lạ, rực rỡ về ánh sáng, màu sắc và âm thanh qua các tiết mục lồng trong những bài hát có quen, có lạ, có mới, có cũ, có vui, có buồn..v..v.. khiến cho người xem như bị lôi cuốn từ đầu tới cuối. Thêm một lần nữa, Trung Tâm Asia đã cống hiến cho chúng ta một tác phẩm thật tuyệt vời và đầy giá trị về nghệ thuật cũng như lịch sử của nền âm nhạc Việt Nam.
Tuy nhiên, sau khi xem xong cuồn DVD Asia 55 này, những cảm xúc và ấn tượng để lại trong đầu (khiến cho nhiều người băn khoăn, suy gẫm) lại là những gì?
Có thể nói đó chính là những hình ảnh khó quên của vài nhạc sĩ xuất hiện trong Asia 55 qua những đoạn video clips phỏng vấn ngắn ngủi nhưng vô cùng quý hiếm. Tiêu biểu nhất vẫn là những nhạc sĩ Văn ***, Trúc Phương, Thăng Long, Ðỗ Lễ, Châu Kỳ, Nguyễn Văn Tý … Cho dù họ đã lìa trần hay còn sinh sống ởquê nhà, nhưng họ có một điểm chung là đã làm “kiếp tằm nhả tơ” để đem đến cho đời biết bao ca khúc tuyệt vời suốt mấy chục năm qua. Nhưng đàng sau những tác phẩm “để đời” ấy là những quãng đời u tối, nhọc nhằn và phần số vô cùng nghiệt ngã mà ít có ai ngờ tới.
Qua cuồn DVD Asia 55 kỳ này, lần đầu tiên chúng ta được nghe và biết chút ít về những nhạc sĩ khá bất hạnh nêu trên, nhưng còn biết bao nhiêu câu chuyện khác về họ mà chúng ta chưa biết và cũng không hề thấy đề cập đến trong những đoạn phim phỏng vấn. Tìm hiểu thêm về cuộc đời của họ, chúng ta lại càng đau xót nhiều hơn cho những kiếp đời mà tạo hóa đã “bắt phong trần, phải phong trần” cho đến mức tang thương cùng tận. Vậy mà số phận của họ vẫn đúnglàcái số “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” ?
Xin cùng nhau tìm hiểu thêm nơi đây vài quãng đời bi thương và tiêu biểu của những nhạc sĩ đã xuất hiện trong DVD Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”:
Nhạc sĩ Trúc Phương (1939-1995):
Một trong những nhạc sĩ nổi bật ở chương trình này qua đoạn video clip ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn có 2 phút mà thôi là nhạc sĩ Trúc Phương. Có lẽ đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng ta được thấy hình ảnh sống động và nghe chính giọng nói của nhạc sĩ rất nổi tiếng này tỏ bày tâm sự của ông.
Phải nhìn nhận một điều là, hầu như các bài hát của ông có một sức thu hút mãnh liệt trong suốt hơn bốn chục năm qua và mãi cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt Nam đang sinh sống. Tài năng của ông không thua kém gì các nhạc sĩ Lam Phương, Lê Dinh, Thanh Sơn … với giòng nhạc đặc biệt mang âm hưởng miền Nam. Nhưng đời sống của ông thì lại trải qua quá nhiều bất hạnh và đau thương, khốn khổ cho đến tận những giờ phút cuối cùng. Tiếc là Asia 55 chỉ cho chiếu phần phỏng vấn nhạc sĩ Trúc Phương, mà không tường thuật thêm chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của ông, nên vẫn còn có nhiều người thắc mắc về đời sống của người nhạc sĩ tài danh này.
Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc, và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ ấu của ông với những cây tre trúc. Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn. Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông (do Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc trình bày trong Asia 55). Một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này đã yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà, vì con tim cô ta đã dần dần rung động trước tài năng của Trúc Phương. Biết được chuyện này, ba mẹ của cô gái bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Nhưng những bài hát sau này lại nghiêng về chủ đề tình yêu đôi lứa với những nghịch cảnh chia lià. Theo lời khuyên của những người bạn mới quen trong giới văn nghệ, Trúc Phương đã cộng tác với vài nhạc sĩ khác để thành lập một ban nhạc nhỏ đi lưu diễn khắp nơi như Biên Hòa, Long Khánh, Vũng Tàu …(trong đó có nhạc sĩ Trần Trịnh, tác giả bài Lệ Đá sau này).
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dỡ, những bài hát sau này của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về …”. Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.
Tài năng của Trúc Phương chói sáng vào những năm 1965-1970 khi ông bước chân vào quân ngũ và viết những bài tình ca thời chinh chiến như “Trên 4 Vùng Chiến Thuật, 24 Giờ Phép, Bông Cỏ May …”. Chính ca sĩ Chế Linh đã nhiều lần tâm sự là nhờ nhạc sĩ Trúc Phương và Châu Kỳ đã dẫn dắt ông vào con đường ca hát với những nhạc phẩm rất thích hợp cho giọng hát của ông. Đặc biệt nhất là hai bài hát “Trên 4 Vùng Chiến Thuật” và “Thói Đời”. Cũng chính hai bài hát này đã khiến cho ca sĩ Chế Linh được quá nhiều người ái mộ, từ những anh lính chiến ngoài tiền đồn hẽo lánh xa xăm cho tới giới học sinh, thành phần lao động, phụ nữ và trẻ con ở hậu phương yên bình... Hầu như ai ai cũng hát được lõm bõm vài câu nhạc của Trúc Phương. Thế hệ ca sĩ đàn em sau này như Đặng Thế Luân cũng đã diễn tả rất truyền cảm bài “Để Trả Lời Một Câu Hỏi” và “Đêm Tâm Sự” của nhạc sĩ Trúc Phương trong CD “Khóc Mẹ Đêm Mưa” do Trung Tâm Asia thực hiện cách đây vài tháng.
Nhưng nổi bật hơn cả là ca sĩ trẻ Ðan Nguyên hát với thần tượng Chế Linh bài "Thói Ðời" ở Asia 55 đã gây được rất nhiều tiếng vang, khiến giới trẻ có dịp tìm hiểu thêm về tác giả bài hát này.
****************************************
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được. Tuy nhạc của ông có âm hưởng cổ nhạc miền nam, nhưng nó lại không giống như những bài hát của Lam Phương, Thanh Sơn, Lê Dinh. Nó có vẻ trầm buồn, ray rức, ưu tư trước thời cuộc dạo đó (là chiến tranh triền miên) và buồn phiền vì những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ truyền của miền Nam như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả hết cái hay của giòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông sau này.
Điều trớ trêu là tuy tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật so với những người viết nhạc thời bấy giờ, nhưng tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, *** sang đài các đem lòng yêu thương ông, do sự rung cảm truyền đạt từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Kết cuộc là cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng đời sống của họ rất là nghệ sĩ. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và sức sáng tạo nghệ thuật của ông càng sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này lại không kéo dài được lâu bền. Bởi vì sau một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Giờ thì nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân tình thế thái.
Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Khi những người đang yêu nhau, nhớ nhau, hẹn hò nhau thì châm điếu thuốc thả khói mơ màng, nhìn rất thơ mộng và nghệ sĩ [ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, anh nói khẽ gớm sao mà nhớ thế (Hồ Dzếnh)]. Nhưng đối với Trúc Phương trong “Thói Đời” thì điếu thuốc lá “cỏ tương tư” lại biến thành ra “cỏ ưu tư” làm cho đôi môi trở nên màu xám xịt qua những nỗi đau thương, nhung nhớ ngập tràn. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần” và ông đã than thở “mình còn ai đâu để vui ? khi trót sa vũng lầy nhân thế ”?
Bài hát "Thói Ðời" đã gây xúc động cho hàng triệu con tim cùng chung số phận nghiệt ngã của cuộc đời. Với riêng bản thân Trúc Phương thì “Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995) nhứt là sau cuộc “đổi đời” bi thảm.
Thực vậy, sau năm 1975 thì tất cả những bài hát của Trúc Phương đều bị cấm trình diễn trong nước. Không có nghề nghiệp gì trong tay, ông làm đủ mọi việc để sinh sống. Năm 1979 ông được bạn bè giúp đở vượt biên, nhưng phần số của ông lại kém may mắn, nên không thoát được khỏi Việt Nam mà lại bị tù tội một thời gian. Ra khỏi tù với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa .”
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Buổi tối ông đón xe về xa cảng miền Tây để thuê chiếc chiếu $1 ngả lưng qua đêm, như ông đã trả lời phỏng vấn trong đoạn video clip hiếm hoi mà vô cùng quý giá vào năm 1995. Có thể nói là trong suốt hai chục năm (1975-1995) không biết bao nhiêu ca sĩ, trung tâm ca nhạc đã thu thanh, thu hình những bài hát của Trúc Phương ở hải ngoại. Nhưng chắc chắn là ít có người đã biết tin ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995. Ông được những người quen, lối xóm chôn cất ở nghĩa trang Lái Thiêu.
Cố nhạc sĩ Trúc Phương đã để lại cho đời hơn 65 ca khúc viết trước năm 1975 và một số tác phẩm khác viết tặng bạn bè chưa được phổ biến sau này. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ những bài hát của Trúc Phương như Ai Cho Tôi Tình Yêu, Chuyện Chúng Mình, Hai Lối Mộng, Chiều Cuối Tuần, Con Đường Mang Tên Em, Tàu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Hình Bóng Cũ …
Được tin nhạc sĩ Trúc Phương lìa đời, ca sĩ Thanh Thúy đang ở California, Hoa Kỳ, đã viết trong số báo Thế Giới Nghệ Sĩ vào tháng 2 năm 1996 như sau:
“Anh Trúc Phương, một ngôi sao sáng của vòm trời âm nhạc Việt Nam vừa vụt tắt. Tin anh qua đời đến với tôi quá đột ngột. Tôi đã bàng hoàng xúc động với sự mất mát lớn lao này. Anh và tôi không hẹn nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho hết kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 1960, tên tuổi anh và tôi gắn liền nhau : “Trúc Phương và tiếng hát Thanh Thúy”.
Đường đời đã chia chúng tôi ra hai ngã, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc, theo chồng đi đến những phương trời xa. Còn anh vào quân ngũ và tiếp tục hăng say sáng tác, hầu hết những nhạc phẩm đều nói về cuộc đời người lính phong sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương …Rồi lại thêm một lần cuộc đời lại chia đôi chúng tôi đôi ngã: Anh kẹt lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong …” (Thanh Thúy).
**************************************************************************
và NS Trúc Linh ( con trai NS Trúc Phương)trả lời cho bài viết trên:
Ok, tui không biết thằng cha Nguyễn Trung này là ai, nhưng ông này viết bài này có mục đích bôi bác Ba tôi và cả gia đình tui, nên tôi phải lên tiếng.
1- Ba tui sanh năm 1933
2- Ba tui không bao giờ uống rượu .
3- Ba tui lấy Má tui trong những năm cuối 50, năm nay tui củng 5 bó rồi, hehe
4- Má tui con nhà giáo, gia đình củng khá, nhưng nhà ở Bến Tre
5- Chiều Làng Em là bài Ông viết cho Má tui .
6- Ô via tui không phải tự học nhạc, mà có thầy dạy đàng hoàng .
7- Xung quanh nhà bà nội tui không hề có tre trúc gì ráo, nhà Má tui thì có .
8- Gia đình tui củng không nghèo, Ba tui thường lái Mazda và Peugeos(?) 404 . Thời xưa củng có thời khó khăn, lúc Ông còn viết nhạc, nhưng sau này Ba Má tôi làm ăn thì củng khá lắm . Khi giải phóng vào, thì có hơi sa sút . Nhưng đó là tình trạng chung của tất cả dân miền Nam, thời bao cấp .
9- Gia đình tôi có tới 6 anh chị em, có nghĩa là Ba và Má tôi chung sống củng khá lâu . Họ ly dị vào khỏang năm79 .
10- Nguyễn Trung viết rằng khi ông qua đời gia tài chỉ còn đôi dép là nói LÁO . Ông không giàu có gì, nhưng củng không đến nổi thê thảm như vậy . Tôi đã từng về thăm ông 3 tháng trước khi ông mất cho thấy điều này ông Trung quá boibác gia đình chúng tôi . Nói như thế có nghĩa là các con của ông không hề quan tâm tới ông . Điều này KHÔNG ĐÚNG sự thật . Chúng tôi lúc nào củng quan tâm đến ông .
Cái bài lá cải này, Nguyễn Trung không biết rất nhiều chi tiết nhưng đã viết như chính Trung là nhân vật chính . Đọc bài này xong tôi rất là bất bình vì có quá nhiều chi tiết không đúng sự thật mà có quá nhiều người đọc . Đến nổi Việt Dzũng trung tâm Asia củng lấy bài này làm tài liệu và củng có lên trên Asia nói rằng khi Ba tôi mất, O^ngchỉ còn đôi dép . VD còn nói rằng đám ma Ba tôi, phải nhờ bạn bè quyên góp để làm mộ cho Ông . Điều này củng không đúng . Gia đình chúng tôi đã chôn cất Ông đàng hoàng mà chưa từng lấy 1 Đồng tiền phúng điếu cuả ai cả . Đây là điều không công bằng với Má tôi vì tôi có đọc vài bài, họ tả Má tôi như là 1 ngời đàn bà không đàng hoàng . Thực sự Má tôi đã từng khổ vì Ba tôi tánh hay bay bướm, họ ly dị vì chính nguyên nhân này .
Trúc Linh
.
No comments:
Post a Comment