NHỚ SÀI GÒN XƯA
CA NHẠC SÀI GÒN
TRƯỚC 30/4/1975
Lời người viết :
Lâu rồi
các bạn bè thân hữu mỗi khi gặp tôi cứ hỏi “Liệu ông có viết lại các mẫu
chuyện về Ca Sĩ Sài Gòn trước năm 75 được không ?”. Bởi dù gì ngày
trước ở Sài Gòn tôi viết chuyên mục về điện ảnh tân nhạc cho nhiều báo
và tạp chí, mà nhật báo Trắng Đen với số bán chạy nhất thời đó là chủ
chốt; đồng thời cũng là một trong các sáng lập viên “Nhóm thân hữu ký
giả Điện ảnh Tân nhạc Việt Nam” (như Huy Vân TTK báo Tiền Tuyến, tức
Binh Cà Gật trong tạp chí Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyễn Toàn, Tương Giang,
Phạm Hồng Vân, Phi Sơn….) thuộc “thiên lý nhãn”…. trăm tai ngàn mắt thời
đó.
Viết
về giới ca nhạc sĩ Sài Gòn thời trước 1975, là viết những chuyện đằng
sau hậu trường, những chuyện dính dáng vào đời tư nhưng không đến nỗi
phải bồi thường “một đồng danh dự”; có thể có những vụ việc đã từng được
đăng hoặc chưa được đăng trên báo, viết về người còn ở lại và người đã
xa quê hương, quả thật hết sức phức tạp !
Lý do
“sự thật hay mích lòng”, nhưng đã hơn 30 năm xin cứ coi đây là kỷ niệm,
thật hư thế nào chính người trong cuộc sẽ hiểu !…. Nhưng vì một lẽ giản
đơn “không muốn vạch áo cho gười xem lưng” đó thôi !?
Cuối
cùng, những phần hồi ký này chỉ trích đăng từng phần, nếu có dịp xin sẽ
viết tiếp… và viết ra để những người về sau tham khảo và biết về các
Nhạc Sĩ & Ca Sĩ trước 1975, đang ở VN, Hải ngoại đã thành danh như
thế nào. (NV)
CA SĨ SAIGON – XUẤT HIỆN TỪ ĐÂU ?
Nói đến ca sĩ từ đâu đến hay nôm na từ
đâu mà thành danh. Tôi chợt nhớ đến Chế Linh đầu tiên, nhớ ngay cái ngày
một thanh niên gốc Chàm khúm núm đến gặp Tùng Lâm ở hậu trường rạp
Olympic, một sân khấu đại nhạc hội do quái kiệt Tùng Lâm tổ chức song
song với Duy Ngọc ở bên rạp Hưng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật.
Tôi nhớ buổi sáng chủ nhật hôm đó khi anh
chàng da ngâm đen tóc quăn, ăn mặc nguyên bộ đồ jean. Đến Tùng Lâm cũng
không hiểu tại sao anh ta, một người lạ mặt vào được tận bên trong hậu
trường. Còn đang ngạc nhiên thì anh chàng người Chàm đã tới gặp ngay
Tùng Lâm xin cho được hát vào những lúc ca sĩ còn chạy show chưa kịp
đến
Tùng Lâm quyết liệt từ chối, dù lúc đó
phải đóng màn chờ ca sĩ cũng không dám cho anh chàng người Chàm này lên
hát, một phần do anh ta là người dân tộc thiểu số và cũng chưa từng nghe
anh ta hát bao giờ.
Nhưng kế tiếp những tuần sau, anh chàng
người Chàm lì lợm vẫn đều đặn xuất hiện xin Tùng Lâm cho được hát, và
rồi Tùng Lâm cũng đành chào thua sự lì lợm quá mức này, đành chấp nhận
cho anh ta hát một bài để thử, với lời dặn chỉ hát một bài và không có
tiền “cát sê”
Tôi chứng kiến các buổi anh chàng người
Chàm đến và cả buổi đầu tiên được Tùng Lâm cho lên hát một nhạc phẩm của
Duy Khánh, với tên được giới thiệu là Chế Linh. (nghệ danh này sau mới
rõ nó có hai nghĩa, nghĩa thứ thứ nhất là họ Chế để khẳng định là”con
cháu” của Chế Mân, Chế Bồng Nga. Nghĩa thứ hai có nghĩa là “lính chê”
bởi người thiểu số được miễn hoãn quân dịch).
Không rõ Chế Linh có được học hát hay có
thiên bẫm hát theo đĩa hay băng nhạc mà nhiều nam nữ mầm non ca sĩ
thường hát nhái đến thuộc lòng, đến khi bài hát chấm dứt thì hàng loạt
tiếng vỗ tay nổi lên tán thưởng kèm theo những tiếng gào “bis, bis” nổi
lên ầm ỉ nơi hàng ghế khán giả.
Nhưng nhìn những người ái mộ vỗ tay gào
thét kia lại chính là đồng hương của Chế Linh, do chính Chế Linh bỏ tiền
ra mua vé cho họ vào xem và chờ đợi cái ngày hôm đó, để chỉ làm một
động tác vỗ tay hoan hô và gào lên những tiếng bis, bis.
Do không được ai lăng xê, không được ai
kèm cặp, Chế Linh thường hát nhái theo giọng ca Duy Khánh và cả những
bài hát tủ của Duy Khánh từng thành đạt. Và nhờ những đồng hương hàng
tuần đến vỗ tay, sau này Chế Linh được Tùng Lâm nhận làm “đệ tử” trong
lò đào tạo ca sĩ của mình (?).
Từ lúc đó Chế Linh mới được uốn nắn rèn giũa lại chính giọng ca của mình.
Khi nói đến những lò “đào tạo ca sĩ”
thường là những nơi có môi trường “lăng xê”, như nhạc sĩ Nguyễn Đức có
hai chương trình trên Đài truyền hình số 9 là Ban Thiếu nhi Sao Băng và
chương trình Nguyễn Đức, cùng hai chương trình trên Đài phát thanh là
Ban Việt Nhi, ban ABC. Còn quái kiệt Tùng Lâm có Đại nhạc Hội, và chương
trình Tạp Lục trên truyền hình. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với đoàn văn
nghệ Hoa Tình Thương của TC/CTCT mà Song Ngọc đứng đầu tàu.
Đây là những lò nhạc giới thiệu nhiều ca
sĩ nhất trong thời gian đó. Như lò Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương
gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng
Quế, Phương Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh có cả nghệ
sĩ hài như Thanh Hoài, Trần Tỷ.
Lò Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan,
Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế Linh, Giang Tử. Lớp nhạc Bảo Thu có
Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan; Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi
Thiện, Họa Mi v.v…
Trở lại với Chế Linh, tuy quái kiệt Tùng
Lâm có môi trường “lăng xê” nhưng về chuyên môn dạy thanh âm cho ca sĩ
lại “mù tịt”; qua đó đã liên kết với nhạc sĩ Bảo Thu và Duy Khánh đào
tạo hay lăng xê Chế Linh trở thành một danh ca như từng đào tạo lăng xê
ra những Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến… Vì từ lò Bảo Thu
(còn là ảo thuật gia Nguyễn Khuyến) cùng Duy Khánh (khi đó ở chung cư
Trần Hưng Đạo) đã cho “ra lò” nhiều ca nhạc sĩ như Quốc Dũng, Thanh Mai,
Thanh Tâm, Kim Loan…
Việc liên kết giữa Tùng Lâm – Bảo Thu –
Duy Khánh làm cho nhiều lò đào tạo ca sĩ bấy giờ lên cơn sốt, bởi ở đây
có đủ môi trường để các tài năng trẻ thi thố tài năng, Tùng Lâm có sân
khấu đại nhạc hội, Bảo Thu có chương trình truyền hình; dạy thanh âm và
cung cách biểu diễn. Chế Linh nhờ vào “lò” Tùng Lâm mà thành danh cho
đến ngày nay.
Tuy nhiên ngoài những lò “đào tạo ca sĩ”
nói trên cũng có những ca sĩ thành danh từ những phòng trà khiêu vũ
trường, trong phong trào văn nghệ học đường, đại hội nhạc trẻ, những
đoàn văn nghệ do chính quyền thành lập. Như Vi Vân, Julie Quang, Carol
Kim, Đức Huy, Ngọc Bích, Thúy Hà Tú (Khánh Hà – Anh Tú), Thanh Tuyền,
hài có Khả Năng, Thanh Việt, Phi Thoàn, Xuân Phát…
Elvis Phương nổi danh từ l1972 thời gian
vào lúc do Thanh Thúy đang khai thác phòng trà Queen Bee cùng với ông
Tuất (sau thời kỳ Khánh Ly), nhưng Elvis Phương đã tạo cho mình một chỗ
đứng lúc còn là học sinh cùng với ban nhạc trẻ học đường. Sau đó Elvis
Phương đi hát cho nhiều phòng trà nhưng do không ai dìu dắt lăng xê đến
nơi đến chốn nên vẫn chỉ là cái bóng của những đàn anh àn chị.
Khi Thanh Thúy khai thác Queen Bee, có
nhạc sĩ Ngọc Chánh làm trưởng ban nhạc Shotguns cùng Cao Phi Long, Hoàng
Liêm, Đan Hà; và hội nhập vào làng sản xuât băng nhạc 1972. Elvis
Phương mới được biết đến từ đó (1969). Tuy vậy Ngọc Chánh không cho mình
đã tạo ra tên tuổi Elvis Phương, anh chỉ có công “lăng xê” còn giọng
hát của Elvis Phương là do thiên phú hay từ môi trường văn nghệ học
đường mà thành công.
Các lò đào tạo ca sĩ ngoài những môi
trường để dễ dàng “lăng xê” gà nhà, nhưng muốn lăng xê một ca sĩ còn
phải qua nhiều cửa ải khác, như tìm một nhạc phẩm thích hợp với giọng ca
để ca sĩ chọn làm bài hát tủ như người ta thường ví đo ni đóng giày.
Bài hát tủ như khi nghe Phương Dung hát
chỉ có bài Nổi Buồn Gác Trọ là nổi bật, nghe Túy Hồng biết đang hát nhạc
của Lam Phương (cũng là chồng của Túy Hồng), nghe Thanh Thúy lúc nào
cũng có bản Ngăn Cách của Y Vân, Thanh Lan với các ca khúc Bài không tên
cuối cùng của Vũ Thành An hay Tình khúc… của Từ Công Phụng, Lệ Thu với
Nữa hồn thương đau của Phạm Đình Chương, Thái Thanh thì chỉ có Dòng Sông
Xanh nhạc Việt hóa của Phạm Duy, Khánh Ly ngoài những nhạc phẩm của
Trịnh Công Sơn, thường tìm cho mình con đường mới là hát nhạc tiền chiến
của Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao. Phương Hồng Quế với Phố Đêm, Những
chuyện tình không suy tư của Tâm Anh v.v…
Sau khi ca sĩ có những bài hát tủ, các lò
còn phải nhờ báo chí viết bài ca tụng tán dương, bỏ tiền cho các tạp
chí lên ảnh bìa hay nhờ báo chí cho đứng tên một mục thường xuyên nào đó
như phụ trách trang nhi đồng, giải đáp tâm tình, trả lời thư tín, nhưng
các ông bầu đào tạo thường trao đổi ca sĩ cho nhau giữa các show truyền
hình truyền thanh, vì ít tốn kém và hiệu quả, tạo đến tai nghe mắt nhìn
cho khán thính giả một cách thực tế, được chú ý hơn.
Một
Phương Hồng Quế có thời gian chiếm lĩnh trọn vẹn trên truyền hình, từ
show này đến show khác, được phong tặng ”Tivi Chi Bảo“, giữ trang Vườn
Hồng, Họa Mi trên báo Tin Điển, Chuông Mai, Trắng Đen, Đồng Nai, Hòa
Bình cùng Phương Hồng Hạnh.
Nhưng ai có biết Nguyễn Đức đã bỏ ra bao
nhiêu tiền để Phương Hồng Quế, Phương Hồng Hạnh dược như thế ? Chị em
Thanh Thúy, Thanh Mỹ giữ mục Trả lời thư tín trên báo Tiếng Dân, sau này
cô em út là Thanh Châu trên báo Trắng Đen v.v..
Tất cả chỉ là cái tên trên báo, vì đã có
người làm giúp viết giúp và lãnh tiền giúp, đó là những ngón nghề lăng
xê ca sĩ từ các lò ”đào tạo ca sĩ“.
Đa số các lò nhạc chỉ thích lăng xê ”nữ
ca sĩ ” hơn nam vì có nhiều lý do, nhưng lý do dễ hiểu nhất đa số… các
ông thầy đều có máu dê.
Có một giai thoại, người ta đồn một nhạc
sĩ gốc mật vụ đệ tử Trần Kim Tuyến thời Ngô Đình Diệm, rất thích các nữ
nghệ sĩ, muốn cô nào từ ca sĩ đến kịch sĩ là nhờ bọn đàn em mời về cơ
quan hứa hẹn dành cho họ nhiều ưu đãi trong nghề nghiệp với điều kiện
cho ông ta được ”thưởng thức“, sau đó giữ bí mật chuyện giữa ông ta với
nàng.
Chuyện bí mật đó là gì ? Trước đó tức
trước khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, có lần ông nhạc sĩ mật vụ còn cao
hứng đòi lấy một nữ kịch sĩ làm vợ, khiến cô nàng sợ quá vọt trốn ra
nước ngoài sống mấy năm mới dám về Sài Gòn hoạt động kịch nghệ trở lại
(cũng nhờ ra nước ngoài mà sau này được trọng vọng thành người thân cộng
).
Không phải người nữ nghệ sĩ này không
khoái ông sĩ quan mật vụ, mà không khoái khi nghe ông bầu show là quái
kiệt Trần Văn Trạch của “Đại nhạc hội một cây” nói đến tính bất lực của
ông ta. Vậy mà sau này có những con thiêu thân “ca sĩ mầm non” đang bán
phở hủ tíu, chấp nhận cho ông ta được “thưởng thức” để có môi trường trở
thành nữ danh ca ..
TOÀN CẢNH TÂN NHẠC MIỀN NAM
Bước vào những năm 63 – 70 của thập kỷ
trước, phong trào Kich Động Nhac và Nhạc trẻ bắt đầu xâm nhập mạnh, các
ca khúc lãng mạn hay lá cải gần như chìm lắng nhường cho nhạc ngoại quốc
được Việt hóa, lý do bộ thông tin & tâm lý chiến bấy giờ ra lệnh
các nhạc phẩm VN phải có lời mang tính ca tụng người lính hay tính chiến
đấu.
Những nhạc phẩm sặc mùi chiến tranh tâm
lý chiến như Lính dù lên điểm, Người ở lại Charlie, Đám cưới nhà binh,
Hoa biển, Anh không chết đâu em, Câu chuyện chiếc cầu đã gãy, Kỷ vật cho
em, Mùa thu chết v.v.. ra đời.
Loại kích động nhạc, nhạc VN tâm lý chiến
có Trần Trịnh viết cho Mai Lệ Huyền lúc đó đang còn sống chung (sau Mai
Lệ Huyền lấy một đạo diễn trên Đài truyền hình số 9 rồi mới vượt biên),
hát cặp với Hùng Cường thuộc loại ăn khách.
Nhật Trường – Trần Thiện Thanh viết cho
chính anh cùng với Thanh Lan. Còn Khánh Ly, Lệ Thu chỉ nỉ non hát những
bài của Phạm Duy như Mùa Thu Chết, Kỷ vật cho Em, Giọt mưa trên lá… Các
nhạc sĩ khác không có nhạc phẩm mới chỉ cho ca sĩ nhai đi nhai lại các
bài hát cũ.
Vì vậy nhạc Pop Rock – Việt hóa ăn khách
do không nằm trong lệnh của bộ thông tin & tâm lý chiến. Những ca
khúc trữ tình như Hởi người tình La-ra nhạc phim Dr.Zivago, Roméo
Juliette, Giàn thiên lý đã xa, Khi xưa ta bé, Lịch sử một chuyện tình…
được ra đời. Trước đó xuất hiện cùng những ca sĩ ban nhạc Black Caps,
Les Vampires, Rockin Stars, The 46, Fanatiques, Spotlights, và phong
trào Viet Hóa như Phượng Hoàng, Mây Trắng (Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang,
Trung Hành, Elvis Phương), CBC (Bích Liên), Crazy Dog (Những đứa con
của cặp nghệ sĩ Việt Hùng – Ngọc Nuôi với Ngọc Bích đầu đàn)
Ba Con Mèo (có Vi Vân, Julie và Mỹ Hòa),
Tú Hà Thúy ( Anh Tú, Khánh Hà, Thuy’ Anh) và những ”thủ lãnh” phong trào
lúc đó là Nhac Trẻ: Trường Kỳ, Tùng Giang, Đức Huy, Kỳ Phát, Nam Lộc.
Nên phải nói rằng nền ca nhạc ở Sài Gòn
từ những năm 60 đến 75 mới thực sự có nhiều điều để nói, vì trước đó
thời TT Ngô Đình Diệm cấm mở khiêu vũ trường, nên sinh hoạt tân nhạc còn
trong phạm vi thu hẹp chỉ có Đài phát thanh, Phòng trà và Đại Nhạc Hội.
Trong thời gian này có Ban Thăng Long với Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái
Thanh, Thái Hằng, nhạc hài hước có Trần Văn Trạch, song ca Ngọc Cẩm –
Nguyễn Hữu Thiết hay Thúy Nga với tiếng đàn phong cầm (sau thành vợ
Hoàng Thi Thơ ), Duy Trác, Bạch Yến, Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung,
Ánh Tuyết, Cao Thái…
Do thiếu hụt ca sĩ, các tay tổ chức Đai
Nhạc Hội thường đưa vào các tiết mục múa của Lưu Bình, Lưu Hồng, Trịnh
Toàn, kịch nói chưa phát hiện ra Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, La Thoại
Tân, Vân Hùng… chỉ có những nghệ sĩ gần đứng tuổi như Phùng Há, Bảy Nam,
Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Hoàng Mai, Anh Lân, Kim Lan, Kim Cúc, Túy
Hoa, Xuân Dung hay cua-rơ Phượng Hoàng Lê Thành Cát (một kịch sĩ nghiệp
dư) chiếm lĩnh sân khấu cùng kịch sĩ đất Bắc như Lê Văn, Vũ Huân, Vũ
Huyến…
Thời gian 1965 – 1975 giới thưởng thức tân nhạc bắt đầu chia khán giả cho từng loại ca sĩ :
- SVHS thì thích những giọng hát của
Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú,
Paolo Tuan, Elvis Phương bởi khi hát có chọn lọc nhạc phẩm mang tính
nghệ thuật cao cấp.
- Đại đa số quần chúng lại thích nghe
Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường,
Thái Châu hát những nhạc phẩm bậc trung nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu.
Còn lại các ca sĩ như Chế Linh, Duy
Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử,
Trang Thanh Lan, Thanh Hùng, Trang Mỹ Dung, Thiên Trang hát các bài được
soạn theo kiểu tiểu thuyết lá cải như Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ
cho em, Đồi thông hai mộ, Rước tình về với quê hương … được giới bình
dân ưa thích. (gọi là “nhạc sến”)
Cho
nên giới sản xuất băng nhạc bấy giờ rất kén ca sĩ hát cho nhãn băng
nhạc, nếu nhãn băng nhạc nào có những Lệ Thu, Khánh Ly, Elvis Phương,
Thanh Lan v.v… thì sẽ không có những Chế Linh, Giao Linh, Trang Mỹ Dung,
Giang Tử, Duy Khánh v.v…
Khán thính giả đã phân chia hạng bậc ca
sĩ nhạc phẩm để thưởng thức. Ông bầu Ngọc Chánh liền cho ra nhiều nhãn
hiệu băng mong chiếm trọn thị trường, vì làm băng nhạc phải nhạy bén với
lớp người thưởng ngoạn do đã phân chia ra từng lớp :
- Shotguns dành cho lớp người có trình độ thưởng thức cao.
- Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.
- Nhãn băng Hồn Nước có Chế Linh, Duy Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế v.v…
- Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền chiến vừa có nhạc hiện đại của những nhạc sĩ tên tuổi.
- Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền chiến vừa có nhạc hiện đại của những nhạc sĩ tên tuổi.
-
Tầng lớp SVHS có nhãn bang hiệu Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe
nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ
Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ánh 9.
- Giới bình dân có rất nhiều nhãn hiệu
băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường
Sơn, Nguồn Sống qua nhạc phẩm Châu Kỳ, Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ,
Trầm Tử Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh
Sơn, Y Vũ, Trần Trịnh, Tâm Anh, Đynh Trầm Ca…
- Nhạc trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng Giang,
Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng, riêng kiosque của chị em Thúy Nga
(không phải vợ Hoàng Thi Thơ) lúc đó chỉ chuyên sang nhạc đĩa nhac Ngoai
Quốc nước ngoài mang nhãn Selection hay Anna / Hon Hoang .
Thế giới ca nhạc Saigon đã phân chia thứ
bậc theo sự thưởng ngoạn, ca sĩ cũng được phân chia ngôi thứ rõ ràng, đó
là đặc tính của tân nhạc miền Nam ngày trước… tháng 04 /1975.
Nguyễn Việt
No comments:
Post a Comment